Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016

Đòn Xâm Lược Bẩn của Trung Cộng

Vũ Cao ĐàmGiới thiệu vài dòng tiểu sử của GS. Vũ Cao Đàm:"... Gần hết cuộc đời, tôi đã nuôi trong lòng tình hữu nghị cao cả với đất nước quê hương của Đức Tổ họ Vũ của tôi. Tôi có lai lịch là người gốc Trung Hoa. Đức Tổ khai sinh ra dòng họ Vũ của tôi là một người thuộc dòng họ Vũ xã Long Khê, huyện Phúc Điền, tỉnh Phúc Kiến, bên Trung Hoa.Đức Tổ của tôi là Vũ Hồn, được Vua Đường Vũ Tông cử làm An Nam Đô hộ sứ cai trị xứ An Nam trong khoảng thời gian 841-843 theo Tây lịch.Nhưng rồi vì thất sủng với Nhà Đường, Vũ Hồn đã về sống ẩn dật với người vợ An Nam ở làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay thuộc tỉnh tỉnh Hải Dương sinh cơ lập nghiệp, dựng nên dòng họ Vũ ở Việt Nam ngày nay.
Tôi nuôi những tình cảm ấm áp với người Trung Hoa từ cuối những năm 1930, khi tôi mới 3-4 tuổi, ở một vùng quê rất xa thành phố. Đó là châu Dực Yên thuộc tỉnh Hải Ninh ngày xưa, mà hôm nay vẫn còn giữ nếp sống bằng lặng, yên bình, ngay sát thành phố Móng Cái, ở đó, vẫn còn dấu ấn của hàng xóm là những người Hoa chất phác, đôn hậu, tắt lửa tối đèn cùng gia đình chúng tôi chia sẻ từng bát cháo hoa ăn với chao và trứng muối…"Lướt nhanh trên mạng những ngày này, chúng ta luôn tìm
được nhiều thông tin đắt giá: Thương lái Trung Quốc (dân thường nói ngắn gọn, là bọn Tàu) về các chợ nông thôn Việt Nam thu mua móng trâu với giá rất cao, thậm chí những cái móng từ 4 chân của một con trâu được bọn Tàu mua với giá hơn hẳn một con trâu. Thế là nông dân Việt Nam và bọn “trâu tặc” ra sức chặt móng trâu đem bán… vẫn còn lãi một con trâu thịt mang bán ở chợ. Chỉ một thời gian rất ngắn, bọn chúng đã triệt phá tan hoang sức kéo của nông dân nghèo Việt Nam . Tiếp đó, dân loan tin cho nhau, hàng lũ lái trâu từ bên Tàu tràn qua biên giới để “tiếp thị” bán trâu. Trong cái lũ thương lái mới này còn có cả kẻ tiếp thị bán trâu sắt (máy kéo). Dân tình vỡ lẽ: Thì ra chúng thu mua móng trâu là vì như thế!Ở một nơi khác, thương lái Tàu đi các chợ thu mua rễ hồi, thế là những bọn “hồi tặc” mở chiến dịch triệt phá rừng hồi, một dược liệu quý hiếm của Việt Nam; chúng mua râu ngô non, xúi giục nông dân triệt phá nương ngô mang bán, đánh vào trúng cái dạ dày của những người mà bọn Tàu gọi là “đồng chí tốt” Việt Nam; chúng thu mua mèo nhằm triệt phá một nguồn trừ chuột cắn lúa; rồi chúng mua ốc bươu vàng, xúi giục nông dân nuôi ốc bươu vàng tràn ngập đồng ruộng phá hoại mùa màng, tấn công vào chiến lược an ninh lương thực của quốc gia “láng giềng tốt” Việt Nam.Hàng tốp thương lái Tàu xuất hiện từ Hà Giang cho đến Lâm Đồng để thu mua chè vàng, là thứ chè chặt thô phơi tái, không cần chế biến. Thương lái Tàu mua chè vàng với giá rất cao, kích thích nông dân chặt trụi đồi chè mang bán. Thế là thương lái Tàu đã triệt hạ vùng nguyên liệu cho các nhà máy chè Việt Nam . Không còn con đường nào khác, các doanh nghiệp chè Việt Nam phải sang mua chè nguyên liệu từ Trung Quốc. Đến khi nông dân Việt Nam cần trồng lại đồi chè, thì các “đồng chí tốt” từ bên kia biên giới, vì tình quốc tế vô sản lại lọ mọ xuất hiện, “giúp” mua giống chè từ Trung Quốc chở qua cho nông dân Việt Nam. Thâm độc hơn, chúng mở chiến dịch thu mua dây đồng vụn với giá cao “trên trời”, đẩy từng đoàn “đồng tặc” lùng sục chặt trộm dây đồng từ các đường điện cao thế, băm nát mạng lưới điện quốc gia của nước “láng giềng tốt” để nước này đốt đèn dầu đi theo họ “hướng tới tương lai”. Có nơi, bọn “đồng tặc” lẻn vào kho ăn cắp từng cuộn dây đồng mới “coong” mang bán, thì “các đồng chí tốt” lên mặt đạo đức: “Ấy chết, cái ngộ không mua cái cuộn dây tôồng ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa của các tôồng chí tâu lố!” (Chúng tôi không mua cái cuộn dây đồng ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa của các đồng chí đâu nhé). Cho đến khi bọn thương lái Tàu đi thu mua cáp quang phế liệu, thì các nhà đương cục của chúng ta mới được phen ngớ ra, không hiểu bọn chúng mua cái “của nợ” này để làm gì. Vì mua dây đồng thì còn có thể hiểu là chúng lấy nguyên liệu, nhưng cáp quang thì thật không thể hiểu được chúng mua để làm gì? Đến khi dân nghèo lặn xuống biển chặt phá mạng cáp quang viễn thông, thì mới “ngã ngửa” ra, là chúng đang phá hoại con đường huyết mạch thông tin của Việt Nam…Chắc là các “đồng chí Việt Nam” nghĩ mãi không biết xử thế nào với những người “đồng chí tốt” bên nước vô sản Trung Hoa, đành phải đưa ra tòa vài thằng dân nghèo “trót dại” lặn xuống biển chặt trộm cáp quang.“Láng giềng tốt” giúp… xây dựng các công trình thủy lợi Sau 1954, Việt Nam được Trung Quốc giúp xây dựng nhiều công trình thủy lợi. Tôi đã tiến hành một cuộc phỏng vấn với Giáo sư TTA, Viện trưởng một viện nghiên cứu thủy lợi ở Hà Nội về sự giúp đỡ thủy lợi của người “đồng chí tốt”, vị Giáo sư kéo tôi vào phòng làm việc và cho xem một video clip quay suốt dọc dòng sông biên giới Việt – Trung.Trời ơi, chúng ta không thể tưởng tượng được, người “đồng chí tốt” đã làm những trò gì đâu! Các “đồng chí” xây 120 cái kè chắn chéo dòng nước trên các dòng sông biên giới, tạo những luồng nước xoáy để làm sạt lở bờ phía Việt Nam, ăn cắp đất mang về phía đất nước “láng giềng tốt” (Trung cọng) bên kia biên giới. Đất bồi sang phía bắc đến đâu, các đồng chí xây nhà cao tầng và kéo giai cấp vô sản quốc tế Trung Hoa đến đó.Xem xong clip của Giáo sư TTA, tôi bàng hoàng… Tất cả các triều đại Đường, Nguyên, Tống, Minh, Thanh, chưa có bất kỳ một triều đại nào trước Triều đại cộng sản Trung Hoa sử dụng những biện pháp tồi tệ như vậy với Việt Nam.Việt Nam đã đối đầu với những đế quốc lớn, đã đối mặt với đủ loại thủ đoạn tàn bạo của nhiều loại đế quốc, nhưng có lẽ đây là ngón đòn xâm lược thâm hiểm và bẩn thỉu nhất của một loại đế quốc mới nổi: Đế quốc Trung Cộng. Tôi hỏi Giáo sư TTA: “Ông có thể cho biết, có công trình thủy lợi nào mà Cộng sản Trung Hoa giúp Việt Nam không chứa đựng những “yếu tố đểu” tương tự như vậy không?”. Ông chau mày trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu…“Tôi khó trả lời anh quá”, Giáo sư nói với tôi như vậy. Đến hành vi gây ô nhiễm môi trường “gien” Việt NamTrên đường phố và sân bay Việt Nam hôm nay tràn ngập người Trung Quốc. Tôi vừa ngồi ở sân bay Đà Nẵng. Tôi đến hơi trễ, hỏi anh bạn ngồi bên phải tôi: “Máy bay Hà Nội gọi vào chưa?”, thì nghe câu hỏi lại bằng tiếng Tàu “Shen ma?” (Cái gì?). Tôi quay bên trái hỏi, thì lại nghe “Shen ma?”. Tôi quay phía sau hỏi, lại thấy “Ni shuo shen ma?” (Ông nói cái gì?)… Tôi ngỡ ngàng, tưởng mình lạc vào sân bay Bắc Kinh.Làng sinh viên HACINKO (Phố Ngụy Như Kontum) không còn chỗ cho thuê vì hơn 500 người Trung Quốc đã “trấn” ở đó. Họ chen lấn trong thang máy và trong nhà ăn, thậm chí chiếm đứt thang máy để chơi đùa leo lên leo xuống, không cho bất kỳ ai sử dụng thang máy. Người Tàu đến đó mở hàng ăn, hàng bán quần áo, mua bán tấp nập như một chợ Tàu. Tối tối sinh viên Tàu trượt patin và la ó huyên náo một góc phố… Họ làm cho tôi liên tưởng tới hai mươi vạn quân Tàu Tưởng tràn vào Việt Nam năm 1945,… ghẻ lở, bẩn thỉu, ngông nghênh và láo xược. Sao mà người Trung Quốc thắng thầu lắm thế? Chuyện bauxite Tây Nguyên đã có quá nhiều người nói rồi. Tôi đơn cử vài chuyện vặt vãnh khác: Chỉ ở một tỉnh ở rất gần Hà Nội thôi, Trung Quốc chưa làm xong Nhà máy điện HB, hàng ngàn công nhân Tàu chưa kịp rút, thì Tàu đã thắng thầu làm Nhà máy điện MK, và hàng ngàn công nhân Tàu lại xuất hiện. Những người Tàu từ các cơ sở sản xuất này lan tỏa khắp nơi để gieo rắc “hạt giống đỏ” cho cách mạng vô sản Trung Hoa, đỡ cho các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam và các công ty môi giới hôn nhân khỏi phải xuất con gái qua Tàu… Tôi có dịp trao đổi với các chị phụ trách hội phụ nữ ở mấy tỉnh Tây Nguyên, thì được biết, các chị đang rất lo ngại, chưa biết xử lý thế nào với nạn con gái Tây Nguyên có bầu với công nhân Tàu (!).

Chúng ta nhìn thấy một cảnh tượng đang đến gần: Đội quân thứ 5 của Trung Cộng đang ngày càng được mở rộng. Cần cảnh báo: Khi Trung Cộng mới sáp nhập Tân Cương vào Trung Quốc, dân Hán ở đây chỉ chiếm chừng 4-5%. Sau nửa thế kỷ, dân Hán đã lên tới 45%. Tôi nhớ đã đọc ở đâu đó, chúng ta có thể rất cần đặt câu hỏi: “Bao giờ dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc thiểu số trên chính đất nước mình?”.Và rồi xoa dịu bằng mấy công trình văn hóa?Gần đây chắc là Trung Nam Hải đã nhận ra sự phẫn nộ của dân chúng Việt Nam trước những hành vi xâm lược của họ, họ đã “kỷ niệm” cho dân Việt Nam mấy pha ngoạn mục: Trước hết là 30 triệu USD xây dựng ký túc xá cho Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh để đào tạo cán bộ cho Đảng. Tiếp đó là Cung Văn hóa hữu nghị Việt – Trung, chắc rồi đến Viện Khổng Tử… và rồi không biết còn những thứ gì nữa.Viết đến đây, tôi chợt nhớ cái thời lớp thanh niên chúng tôi say mê theo các nghệ sỹ ca ngợi… những cánh hoa mộc miên bay tới đâu, tình hữu nghị của dân tộc Trung Hoa lan tỏa đến đó… Sao mà lãng mạn. Ngẫu nhiên, tôi ngồi để hồi tưởng tâm tình lãng mạn theo những “Cánh hoa mộc miên” với Giáo sư Phạm Huy Tiến, một nhà địa chất, cũng có thời đi tu nghiệp “tiến tu Giáo sư” ở Học viện Địa chất Bắc Kinh (đối diện Học viện Khoáng nghiệp của tôi). Giáo sư Tiến cười rũ ngắt lời tôi: “Các bố nhầm hết rồi. Các nghệ sỹ cũng nhầm rồi. Cánh rừng mộc miên khi xưa nằm trên đất Việt Nam . Bọn địa chất chúng tôi lăn lộn ở đó quá nhiều. Cả đỉnh thác Bản Giốc nữa, cánh địa chất chúng tôi từng lên đó nấu cơm ăn… Nhưng rồi Trung Quốc lấn chiếm, nuốt toàn bộ cánh rừng mộc miên vào lòng Tổ quốc Trung Hoa”… Và thế là những cánh hoa mộc miên lại hồn nhiên bay “từ đất Trung Hoa”, lan tỏa tình hữu nghị “vạn cổ trường sinh” giữa hai dân tộc. Ấy thế mà, trong khi tôi được nghe các bạn nghệ sỹ của chúng ta ca ngợi “Hoa mộc miên mọc đến đâu, lan tỏa tình thữu nghị của dân tộc Trung Hoa đến đó”, thì, trong một trang mạng nào đó, tôi lại nghe những người cộng sản Bắc Kinh lập luận: “Hoa mộc miên bay đến đâu gieo hạt đến đó; Cây mộc miên mọc ở đâu, đất Trung Hoa ở đó. Việt Nam chỉ có cây tre, làm gì có cây hoa mộc miên!”. Trung Hoa là một đất nước có một đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối. Như vậy có thể suy luận, mà không sợ sai lầm: Tất cả những sự kiện nêu trong bài viết này đều do các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đưa đường chỉ lối.Chính những người cộng sản Trung Hoa đã làm tan vỡ hoàn toàn tình cảm nồng ấm của những người thuộc thế hệ chúng tôi với một đất nước đã sinh ra Đức Tổ Vũ Hồn của dòng tộc của tôi, một đất nước, mà có thời tôi đã coi là Tổ quốc thứ hai của mình.
 
Vũ Cao Đàm         

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

Đại Hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam Đối diện với Năm Chữ Chính

Năm chữ Chính đó là:
Một: Chính Danh.
Hai:  Chính Thống.
Ba:   Chính Nghĩa.
Bốn: Chính Học.
Năm: Chính Mi
Tôi tin rằng đa số các đại biểu được cử đi dự Đại Hội này phải  quan tâm tới năm chữ Chính có tầm quan trọng này. Năm chữ Chính này, dẫu họ không nghĩ tới, Nó vẫn luôn tồn tại, thường xuyên có mặt, chi phối mọi hành vi của đảng, của từng đảng viên trong chức phận, trong hành xử…của họ.
                                Chữ Chính Thứ Nhất: Chính Danh.
Nguyễn Công Trứ từng có câu nỗi tiếng:
        “Làm người đứng ở trong trời đất.Phải có Danh gì với núi sông”
Câu hỏi này không chỉ cho một cá thể Người, mà nó chung cho cả những cộng đồng Người.Đảng cũng thế, luôn luôn phải đối diện với câu hỏi này,và tùy từng thời phải có câu trả lời cho đúng,nghĩa là trả lời cho “thuận thiên thời,thuận địa lợi, thuận nhân hòa.”Và đây là chữ Chính đầu tiên mà Đại hội XII đối diện.Họp đại hội XII để làm gì, nếu không phải là để trả lời cho đúng những cái “danh” mà đảng đã và đang đánh mất.Không trả lời rõ vấn đề này, những nội dung của Báo cáo chính trị sẽ không có linh hồn. Thử hỏi một người không có linh hồn thì nhân cách sẽ như thế nào.Vì thế các dại biểu phải quan tâm vấn đề này.
Vậy,xin nói về thế nào là chính danh.Trong học thuyết của  nho gia có mấy quan niệm chính danh rất hay. Một là của Khổng tử và hai là của Lã thị Xuân Thu.Ba là của Lưu Dực.
Trong sách Luận ngữ, thiên Tử Lộ có câu nói nỗi tiếng của Khổng tử.”Danh không chính thì lời nói(tư tưởng, chính sách…)không thuận.Lời không thuận thì công việc không thành.Việc không thành ắt lễ nhạc(trật tự, kỹ cương…) không chấn hưng được.Lễ nhạc không hưng thì hình phạt(luật lệ) không trúng.Hình phạt không trúng, thì dân chúng không biết đặt tay chân vào đâu,(không biết làm gì cho phải,làm gì là trái.)Cho nên người quân tử (kẻ lãnh đạo) phải nói cho rõ cái danh,đã nói thì làm cho được.Kẻ quân tử -lãnh đạo, không được nói tùy tiện.”
Sách Lã thị Xuân Thu,thiên Chính Danh có câu:”Danh chính thì trị,danh mất thì loạn.Kẻ làm cho mất danh,là kẻ nói,chủ trương quá mức.Nóí,chủ trương quá mức độ tức là biến cái có thể thành cái không có thể,cái không cho phép. Nên cái phải biến thành cái không phải;biến cái đúng thành cái không đúng;nên cái sai thành cai không sai…Phàm mọi sự lọan,là do chính danh không đúng vậy!”.Lưu Dực (thời Hán-Ngụy) cũng viết”Phàm danh không ngay thẳng,chính đáng thì mọi việc sẽ sai lầm…Cho nên bậc vương giả phải chính danh để giám sát cái thực của nó.” Có thể nói đây là trí khôn Trung hoa,nhưng cả mấy ngàn năm qua ít ai hiểu và làm đúng,ngày nay cả những người cọng sản Trung hoa cũng như Việt đều đang đối diện với vấn đề “Chính Danh”.
I.-Có rất nhiếu sự rối loạn về chính danh của Đảng Cọng sản.Thứ nhất là danh xưng ‘Cọng sản” không phản ảnh đúng cái tên Communisme.Thuật ngữ này trong tiếng Đức, Anh, Pháp, Nga…đều  được hiểu là chủ nghĩa cọng đồng.Chữ cọng sản, nhiều người cho là người Nhật dịch đầu tiên rồi truyền sang Tàu, vào Việt nam khoảng đầu thế kỷ 20.Tôi đồ rằng cái tâm thức nông dân phong kiến với quan niệm “thiên hạ vi công”,và “ở đời muôn sự của chung”,”tâm lý chung chạ” đã khiến những người dịch ban đầu chỉ tìm tới cái ước muốn “cọng sản”mà đã bỏ qua cái ý thức về “một cộng đồng kiểu mới” của  K.Marx.
Thứ hai là cái gọi là chủ nghĩa xã hội và chế độ xã hội chủ nghĩa.Đây là những tư duy đại lộn xộn.Lớp đảng viên đầu tiên hiểu và nói chủ nghĩa cọng sản là “tam vô nhị các” Tam vô là vô tổ quốc. vô gia đình, vô tôn giáo.Nhị các là các tận sở năng, các tận sở nhu. Nghĩa là mọi người làm hết năng lực của mình và hưởng hết nhu cầu của minh.(sướng quá, ai mà không thích!) Hiểu tôn giáo đến mức cực đoan như Tbt Nguyễn văn Linh từng nói với trí thức các trường Đại học ở Hà nội tại hội trường C2 ĐHBK, rằng “tôn giáo là thuốc độc của nhân dân.” Chú ý thuốc độc, chứ không phải thuốc phiện như Mác quan niệm.
Còn xóa bỏ xã hội cũ thì “Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ”.Sau này thấy ấu trĩ quá nên không tuyên truyền nữa.Sau năm 1950 khi khai thông biên giới với Trung quốc,đảng đổi tên là đảng Lao động lấy tư tưởng Mao trach Đông đưa vào điều lệ làm kim chỉ nam cho hành động.Tư tưởng gian khổ ba năm xây dựng chủ nghĩa xã hội hình thành với những khẩu hiệu được coi là”tổng lộ tuyến” sau mới đổi thành “đường lối chung”:”bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến manh, tiến vững chắc, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội,với những chủ trương cải cách ruộng đất, cải tao công thương, công tư hợp doanh…”tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất,cách mạng văn hóa tư tưởng,coi cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt…Nhưng như người xưa nhận xét, do không chính danh nên nói và làm lộn xộn “biến cái có thể thành cái không có thể, cái phải biến thành cái không phải,cái sai thành cái không sai…”Hậu quả là ngày nay,đảng không còn là tiên phong cách mạng, cũng không còn người đại diện cho lợi ích của Dân tộc.Chính quyền không còn là của Dân, Do Dân, vì Dân mà đã có những hành động phản bội lại lợi ích của Dân, của Nước,đã biến thành những nhóm lợi ich tham nhũng, mua quan bán tước,lệ thuộc Trung quốc.
Ngay như điều 4 trong Hiến Pháp cũng hiểu, nói và làm lôn xộn, không rành mạch rõ ràng.Những câu chữ trong điều 4 không có một văn bản có tính luật nào giải thích cho rõ ràng, chính xác.Thế nào là vai trò nhà nước của đảng, thế nào là đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội.Đưa vào Hiến pháp một nội dung không có một điều luật nào đi kèm để hiểu đúng làm đúng,tính chính danh của đảng bị vi pham một cách tùy tiện.Nói như người xưa đó chính là đầu mối của mọi sự suy đồi, rối loạn.Một Nhà nước “loạn”thì không tham nhũng, suy đồi, trì trệ, lạc hậu và tụt hậu ngày một xa mới là lạ.
Đại Hội XII phải phân tich mổ xẻ, cân lại cho ngay ngắn chữ Chính đầu
tiên là “Chính danh".Nếu thật sự có trách nhiệm các đại biểu của Đại hội phải đưa vấn đề này vào  nội dung của Đại hội.
2-Có ba điều có thể làm nên tính chính danh cho đảng hôm nay:
Một là Việc đầu tiên là phải từ bỏ cái gọi là chủ nghĩa Mác Lênin.Vì sao vậy,vì học thuyết này cung cập một lối tư duy giáo điều, đầy mâu thuẩn,làm rối loan chuẩn mực. Phàm con người mà tư duy rối loan chuẩn mực thì như người xưa nói sẵn sàng biến cái sai thành đúng,cái không có thể thành có thể.Sự rối loạn tư duy trên tổng thể của xã hội ta đã nhìn thấy rõ.Cứ nhìn vào thực trạng xã hội chúng ta hôm nay, những người trung thực không khỏi không đau lòng. Lẽ nào các đại biểu Đại hội nỡ nhắm mắt làm ngơ?!
Hai là,từ bỏ mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu xô viết đã phá sản trên thực tế,đã gây nên thảm họa, khiến cả châu Âu bất bình lên án là chế độ này đã gây nên những tội ác chống nhân loại ở ngay những quốc gia do những đảng cọng sản cầm quyền.Ở Việt nam chúng ta, không thể chứng minh được về lý thuyết cũng như thực tiễn là cnxh thực sự có chân thiện mỹ,trái lại nó đã gây ra vô vàn đau thương cho con người và xã hội.Có thể nói tất cả nhũng cải cách xã hội theo đường lối tiến lên cnxh của đảng cọng sản đều thất bại thảm hại,từ CCRĐ đến hợp tác hóa nông nghiệp,Cải tạo công thương…Cho đến khi cùng đường thì phải “đổi mới”,thực chất là thực hiện dè dặt nhũng hình thức và phương thức của chủ nghĩa tư bản.Tuy nhiên do thực hiện những hình thức tư bản chủ nghĩa mà vẫn duy trì Mác Lê nên về cơ bản không thể thực hiện phương thức tư bản chủ nghĩa hiện đại,thành ra đã sản sinh một thứ chủ nghĩa tư bản vừa hoang dã vừa quái dị với những quan hệ xã hội rất phong kiến.Điều ấy khiến đất nước tiêu hao nhiều nguồn lưc của dân tộc,bóc lột tận cùng tài nguyên thiên nhiên cũng như lao động,chấp nhận công nghệ lạc hậu, phương thức gia công lệ thuộc,lạc hậu và trì trệ, tham nhũng triền miên, bị các nước trong khu vực bỏ xa mà với thể chế và những thiết chế xã hội, chính trị như hiện nay không thể nào rút ngắn khoảng cách được.
Như thế đảng chỉ còn một lựa chọn tối ưu là đi theo đường lối xã hội –dân chủ, chấp nhận đa nguyên, hợp tác với tất cả mọi lực lượng dân tộc,dân chủ của đất nước,tôn trọng xã hội dân sự,kinh tế thị trường không có đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa đã tỏ ra vô vọng và vô nghĩa.Bài học của các đảng xã hội dân chủ rất sáng giá, nếu đảng học theo có thể lột xác biến mình thành một thực thể khác ,văn minh, tiến bộ,vẫn theo đuổi những tư tương xhcn (xin lưu ý tư tưởng xhcn khác xa với cái gọi là chế độ xhcn mà đảng đang áp đặt tại Việt nam) ,lại phù hợp với tiến trình lịch sử đương đại,làm nên tính chính danh đích thực cho đảng.Nếu để chậm trễ có khả năng đảng bị Dân tộc cho vào cái spam lịch sử.(Nhân đây tôi cũng xin thưa, theo chỗ tôi biết, nhiều cán bộ cao cấp khi còn học ở Liên xô và Đông Âu đã từng phê phán đường lối Stalinnien và Maoist của đảng và từng công khai bày tỏ sự ủng hộ đường lối xã hội dân chủ.Nhưng khi về nước,họ lại tỏ ra cơ hội tả khuynh để leo được vào TW!)
Thứ ba,Không thể chính danh, nếu vẫn đi theo đường lối sai lầm trở thành chư hầu lệ thuộc chính sách bá quyền đại Hán của Trung hoa.Xoay trục vè Dân tộc,từ bỏ đường lối đối nội, đối ngoại lệ thuộc Trung hoa, bắt chước Myanmar,vì lợi ích dân tộc,sẵn sàng “thoát Trung”,sẵn sàng hòa hợp,hợp tác với nhũng lực lượng dân tộc, dân chủ của Đất Nước.
Làm được ba điều ấy,bỏ Mác Lê nin,đi theo khuynh hướng xã hôi –dân chủ,xoay trục về Dân tộc, đảng cọng sản Việt nam sẽ lột xác, cải tạo mình để có Chính Danh.
Vì sao những khẩu hiệu :Xây dựng một nước Việt Nam Hòa bình- Thống nhất- Độc lập Dân chủ -Giàu mạnh, hoặc như : Dân giàu, Nước mạnh,Dân chủ, Văn minh,Nhà nước của Dân vì Dân do Dân,Đảng văn minh, đạo đức…lại khó thực hiện đến vậy?Vì sao Đất nước ta, xã hội ta lại đang diễn tiến chính xác như dự báo của K.Mác vậy? Có hai dự báo quan trọng.Một là :Khi  “Chính phủ(ở VN là đảng, hệ thống cầm quyền) chỉ nghe thấy tiếng nói của chính mình, duy trì sự  lừa dối,và cũng đòi hỏi dân chúng phải ủng hộ sự lừa dối đó. Còn dân chúng hoặc sẽ rơi vào tình trạng mê tín chính trị, hoặc hoàn toàn quay lại với cuộc sống quốc gia biến thành đám người chỉ sống với  cuộc đời riêng tư.”(Mác- Ăng ghen Toàn tập,TI NXBCTQG 1995, tr105) 
Dự báo thứ hai ,Chính quyền của  giai cấp công nhân, Mác nhấn mạnh,  “Sẽ được thúc đẩy bằng một chế độ ủy trị. Người ta sẽ phó thác cho một nhóm người tự ứng cử để đại diện và cai trị họ.điều đó khiến họ lập tức rơi tỏm  ngay vào mọi sự lừa dối và lệ thuộc.Sau một hồi ngắn ngũi được tự do và hưng phấn cách mạng làm công dân của một nhà nước kiểu mới,họ sẽ bừng tĩnh thấy mình là nô lệ, con rối,  con mồi của những tham vọng mới”(K.Mác cuộc đời và tác phẩm.J.Eleinstein.NXB Fayard) .Với dự báo rất trúng với thực trạng hiện nay cái danh xưng,Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Châu Á…nó khôi hài biết bao!
Điều gì khiến hiện thực xã hội của Đất nước đã trở nên “loạn”, đúng sai lẫn lộn,đem cái sai để thi hành, biến cái sai thành tư duy chính thống,đem cái ảo tưởng,cái không chính xác thành đường lối hành động… chính vì đảng đánh mất ‘Chính Danh”.
                              
                            Chữ Chính thứ hai: Chính Thống.
Tính chính thống của lực lượng cầm quyền của một quốc gia dân tộc là vô cùng trọng đại và thiêng liêng.
Ngày xưa khi còn trong chế độ bộ tộc, người thủ lĩnh chính thống là một người già có kinh nghiệm, hiểu biết,có sức mạnh thể chất và trí tuệ để có thể dẫn dắt bộ tộc đi săn,chiếm giữ địa bàn sinh tụ, chống lại bộ tộc thù địch, có trí khôn để biết phân xử phải trái, giữ gìn luật tục của bộ tộc…
Thời phong kiến,một gia tộc nào đó tập hợp được lực lượng xã hội dùng sức mạnh vũ trang cướp được ngôi báu, dùng thuyết thiên mệnh để lên ngôi lập ra một triều đại.Phần lớn các triều đại phong kiến Trung hoa đều như thế.Ở Việt nam có khác.Phần lớn các triều đại đều có võ công oanh liệt chống giặc phương bắc nên có ơn ich với Dân Nước mà lên ngôi chính thống,tuy cũng áp dụng thuyết thiên mệnh.
Đấy là một thời. Nay vào thời đại dân chủ phổ biến toàn cầu, thuyết thiên mệnh không thể dùng nữa.Một lực lượng chính trị nào muốn ở ngôi chính thống lãnh đạo quốc gia đều phải hội đủ hai điều kiện, cần và đủ là phải có công tích ơn ích đối với Dân Nước, đó mới là điều kiện cần. Nhưng còn một điều kiện đủ  nữa mới có thể trở thành chính thống.Đó là sự phúc quyết của nhân dân,theo những thể thức dân chủ.
Thật ra công tích của đảng cọng sản, thì  như nhận định của học giả, nhà chính trị Trần Trọng Kim mới đúng.Vào năm 1947 cụ Trần viết thư cho Hoàng Xuân Hãn đã nói rõ:Việt minh do đảng cọng sản lãnh đạo là lực lượng chính trị to lớn và có tổ chức, họ “Công chi thủ. Tội chi khôi”. Nghĩa là công ở hàng đầu, mà tội cũng lớn nhất.Đó là nói công tích,vừa công to mà tội cũng lớn.Điều kiện cần này cũng thật chưa trọn vẹn.
Còn điều kiện đủ là gì.Trong thời đại Dân chủ vấn đề dân có phúc quyết hay không mới là tối quan trọng và đầy đủ.Về vấn đề này, câu chuyện có ý nghĩa và thú vị nhất là trường hợp Đảng Tập hợp dân chúng của Pháp do Tướng De Gaulle lãnh đạo.Sau khi cùng quân Đồng minh đánh bại phát xít Đức,họ đã không như cách Trung hoa “lập chính quyền trên đầu súng”,mà thông qua bầu cử,đảng Tập hợp dân chúng mới được cầm quyền và De Gaulle mới được cử làm Tổng thống nước Pháp.
Còn ở  Việt nam hiện nay,tuy có bầu cử,nhưng Ủy ban bầu cử do dảng chi phối (lãnh đạo),người ứng cử do đảng chỉ định, kể cả một vài người gọi là ứng cử tự do cũng đều do đảng có cho phép hay không.
Trong Hiến pháp dẫu có điều 4 quy định về sự lãnh đạo của đảng, nhưng lại không có một đạo luật nào nói rõ về điều đó.Hiện nay trong xã hội ta, những thiết chế chính trị đều được điều tiết bằng hiến định và luật định.Chính phủ và hệ thống chính quyền địa phương đều có hiến định và luật định.Quốc hội có hiến định và luật định.Hệ thống tư pháp (tòa án) có hiến định và luật định.
Chỉ mỗi mình đảng là đang hoạt động không có luật định.Vì thế tính chính thống của đảng hiện nay là nửa vời.Công cũng chỉ nửa vời mà Luật cũng chỉ nữa vời.
Thật sự đảng đang bị thách thức tính chính thống từ cả hai phía công và luật.Đại hội XII không thể để cho đảng tiếp tục cầm quyền mà mất đi tính chính thống toàn vẹn.
Để có tính chính thống hôm nay:
-Đảng phải lập công, từ bỏ đường lối hư hỏng cũ kỹ như đã nói ở trên,để cùng những lực lượng dân chủ tiến bộ phục hưng dân tộc trong giai đọan mới.
-Kiên quyết bỏ Điều 4 HP,xây dựng một đạo luật văn minh và dân chủ về Tổ chức và hoạt động của các đảng chính trị Việt Nam.
-Tôn trọng đa nguyên, vì độc nguyên là độc tài hư hỏng cũ kỹ.Tổ chức bầu cử tự do văn minh, minh bạch.Chỉ trong điều kiện ấy,đảng cọng sản mới được đặt mình trong xã hội,đua tranh để lành mạnh,kiếm tìm nhân cách mới của đảng và của từng đảng viên mới mong lấy lại niềm tin,sự tín nhiệm của nhân dân,mới mong lập được công tích mới thật thà phục vụ dân nước.
Ngay như việc nhân sự mà Hội nghị TW 13 đang họp bàn cũng phải lý
đến tính chính thống.Ban chấp hành TƯ mặc nhiên là ban lãnh đạo quốc gia.Nhưng ai quy định điều này, không có bất cứ một điều luật nào quy định cả.Vì không quan tâm đến tính chính thống, nên phương thức và phương pháp chọn, bầu một ban chấp hành TW-ban lãnh đạo quốc gia cho đến nay vẫn là tùy tiện,và cách thức rất cổ hủ.
Đúng ra sự lựa chọn nhân sự ,đặc biệt là với bốn chức danh “tứ trụ triều đình” ít ra là phải diễn ra theo hai quy trình. Một là sự lựa chọn trong nội bộ của đảng, và hai là quy trình phúc quyết của quốc dân.Cả hai quy trình ấy đều phải có tranh cử.Những ứng cử viên phải có nhân thân được tín nhiệm, phải có ý tưởng và chương trình tranh cử. Cuộc tranh cử để được lựa chọn ấy phải diễn ra công khai, minh bạch, có sự giám sát của xã hội.Hội nghị TW 13 cũng đang làm việc theo phương thức của mô hình xô viết đã “hư hỏng cũ kỹ”!Vì thế, đối với toàn đảng, cũng như với xã hội,nó có sự bất minh, mờ ám,nó chỉ là việc làm của một nhóm người,mà tư cách pháp nhân nhà nước không rõ ràng,cứ đọc những mẫu tin về cuộc họp này đủ thấy rõ.
Với những cách làm đã “cũ kỹ, hư hỏng”ban lãnh đạo của đảng, đặc biệt là Tổng Bí thư đang đặt đảng trước một thử thách về tính chính thống.
                              Chữ Chính thứ ba: Chính Nghĩa.
Một chính đảng có chính nghĩa phải theo và phục vụ cho chính nghĩa của dân tộc.
Tính chính nghĩa của dân tộc phải phù hợp với :Thiên thời. Địa lợi. Nhân hòa.Thiên thời, địa lợi nhân hòa đương đại đã có những nội hàm mới
Thiên thời là quy luật vận động xã hội trong dòng lịch sử đương đại,nó là tiến trình hình thành văn minh và văn hiến mới của nhân loại.Nó là tiến trình dân chủ hóa toàn cầu,là kinh tế thị trường toàn cầu hóa,tin học hóa,tri thức hóa và ưu thế hóa từng dân tộc từng khu vực.Là tiến trình nói như F.Angel là sự hòa giải của nhân loại với thiên nhiên và với chính mình.
Địa lợi,sự phát triển độc lập, tự chủ của các quốc gia dân tộc trong những quan hệ địa chính trị mới văn minh, nhân văn, tiến bộ,hợp tác chống lệ thuộc, phi thực dân hóa,đế quốc chủ nghĩa bá quyền.(Khi nhân loại bước vào văn minh tin học,sự cải thiện số phận của các quốc gia dân tộc là rất lớn.Ví dụ là các nước nhỏ Tây Âu sau thế chiến thứ II,nhũng nước NICs ở châu Á và Mỹ La tinh…
Nhân hòa,sự chăm lo cho con người,phát triển và tôn trọng nhân quyền,dân quyền,hài hòa lợi ích cá nhân và xã hội,thu hẹp chênh lệch giàu-nghèo.Hưng dân trí,chấn dân khí, hậu dân sinh.( phát triển khoa học giáo dục,tôn trọng và đề cao dân quyền,nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.)Người dân, các công dân được sống trong môi trường xã hội dân chủ, văn hóa,ba thiết chế xã hội hài hòa.Một chính quyền dân chủ, trong sạch,trách nhiệm và hiệu quả.Một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa,không bị làm méo mó biến dạng với những định hướng sai lầm duy ý chí, độc quyền.Một xã hội dân sự văn minh phát triển.
Hiện nay tính chính nghĩa của đảng đang bị thử thách,vì đường lối chính trị của đảng không tương thích với dòng chảy của lich sử nhân loại đương đại,khiến cho Dân tộc rơi vào cảnh lệ thuộc về chính trị vào đường lối bá quyền đại Hán của Trung quốc, về kinh tế,thì ngày một tụt hậu xa so với những nước trong khu vực, mà trước đây ta cùng với họ là ngang một trình độ.Vì đường lối sai lầm,khiến cho phương thức quản lý và công nghệ lạc hậu, đang trở thành nước gia công lệ thuộc,về xã hội văn hóa giáo dục vừa suy đồi vừa yếu kém, đời sống cùa đa số  người dân lương thiện, công nhân, nông dân, người lao động,công chức thấp, đang là nỗi nhục, nỗi xấu hỗ của chế độ!
Đường lối đối nội , đối ngoại sai lầm của ban lãnh đạo đảng , đang đặt Dân tộc trước những hiểm họa, chủ quyền biên cương và Biển đảo bị bá quyền Trung quốc cưỡng chiếm lâu dài , hòa bình và an ninh quốc gia thường trực bị uy hiếp,công cuộc làm ăn sinh sống của nhân dân trên biển bị khống chế…
Tính chính nghĩa của đảng đang bị thử thách nghiêm trọng trên cả mấy vấn đề cơ bản :
Một là có sớm cải cách để Dân chủ hóa,kiên quyết từ bỏ thể chế và những thiết chế đã hư hỏng cũ kỹ,thực hiện đa nguyên chính trị, hòa giải dân tộc,nhằm phát triển tối đa, tối ưu nội lực của Dân Nước,đưa Đất Nước sớm thoát khỏi tình trang lac hậu, tụt hậu xa,ra khỏi tình trạng suy đồi thoái hóa đang diễn ra,nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của Dân.(thật kỳ lạ, nói nhà nước công nông,mà đời sống của công nông hiện tình rất thê thảm,thua xa các nước trong khu vực!)
Đây là thử thách của mọi lực lượng chính trị của Dân tộc,nó là hòn đá thử tính chính nghĩa có thật lòng vì Dân vì Nước hay chỉ vì quyền lợi ích kỹ của nhóm cầm quyền,chỉ nhăm nhăm lợi ích của chủ nghĩa, của phe nhóm.Một xã hội có dân chủ dân quyền(chứ không phải quan chủ, đảng quyền)một Đất nước có tự do, hạnh phúc thật sự chứ không chỉ trên câu chữ đầu lưỡi,dân trí được nâng cao, dân quyền được thực hiện, dân sinh được chăm lo cải thiện,là những lý do để tồn tại của tất cả mọi đảng phái, mọi lực lượng chính trị của Dân Nước.Ngót thế kỹ qua với những điều kiện hiện thực như của Việt nam, những nước trong khu vực đã làm được,nhưng đảng cọng sản Việt nam đã duy trì quá nhiều sai lầm khiến cho chính nghĩa ấy đã không thực hiện trọn vẹn,mà tổng bí thư  Nguyễn phú Trọng lại nói một cách vô trách nhiệm là trăm năm nữa cũng không chắc có chủ nghĩa xã hội.!
Hai là,Độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và biển đảo,an ninh của quốc gia có được bảo vệ vững chắc và trọn vẹn,hay để bị uy hiếp lâu dài,bằng những hành động kiên quyết, khôn ngoan,hay cả tư duy chính trị, cả lời nói, việc làm đều lệ thuộc bá quyền đại Hán .Hành xử của đảng từ 1958 đến nay đều từng bước lộ rõ sự cam tâm lệ thuộc đảng cọng sản Trung quốc, hữu ý hơn là vô tình buộc số phận của Dân tộc vào sự lệ thuộc Trung hoa.Phải “thoát Trung”.Không có nghĩa là cắt đứt mọi quan hệ với Trung hoa.Nhưng phải tự chủ, tự lập,liên kết với bất kỳ ai để gia tăng thế và lực chống lại dã tâm của Trung hoa đang hưng phát và đi theo con đường đế quốc chủ nghĩa theo màu sắc đại Hán,đang tìm mọi cách để ngăn chặn sự phát triển tự nhiên, lành mạnh,bức ra khỏi mô hình lạc hậu, trì trệ của Việt Nam.
Một chính sách “đối Trung” lành mạnh, hữu hiệu,tự tôn dân tộc, là thử thách nghiêm trọng tính chính nghĩa của đảng cọng sản Việt Nam đối với dân tộc.
                                 Chữ Chính thứ tư: Chính học.
Người đầu tiên sử dụng chữ chính học là cụ Ngô Đức Kế, trong cuộc tranh biện về Truyện Kiều với nhà văn hóa Phạm Quỳnh :”Chính học và Tà thuyết”Khái niệm chính học được nêu lên để phân biệt, đối lập với tà thuyết.
Chính học nói giản dị là “học thuyết chân chính”.Vậy có thể lấy những chuẩn mực nào để khẳng định một học thuyết là chính học? Nếu không thì nó sẽ là tà thuyết!

Có ba tiêu chí.
Một là tính đúng dắn, chính xác,lô gích nội tại (của học thuyết)không mâu thuẫn,có thể dùng tư duy khoa học để kiểm chứng.Nó được phản ảnh đến tối đa “tính chân” của nhận thức luận, vì thế nó có tính khiêm tốn để biết rằng nó chỉ là một bước tiệm cận đến chân lý.(Nó không huênh hoang một tất đến trời như cho mình là chân lý tột cùng,là đỉnh cao muôn trượng, là độc tôn duy nhất…!).
Tính đúng đắn này không chỉ được kiểm chứng bằng tư duy khoa học,mà quan trọng là được chứng minh, kiểm định trong thực tế cuộc sống.Ví dụ cái câu của Lê nin huênh hoang là dân chủ xhcn cao gấp triệu lần so với dân chủ tư sản.Thực tế của Liên xô, Trung cọng,Việt cọng,..đã bác bỏ cái luận điểm tuyên truyền chính trị lừa đảo đó của Lê nin! Thực tiễn Việt Nam ngót nửa thế kỹ qua hoàn toàn bác bỏ rằng sự lựa chon của Hồ Chí Minh và của đảng cọng sản,theo chủ nghĩa xã hội là đúng đắn duy nhất.
Hai là tính thiện,nó góp phần làm cho cuộc đời, cho con người, cho xã hội cho đân tộc thật sự có tiến hóa,phát triển,không tạo ra áp bức xã hội. Nó thật sự là nhân văn, nhân ái,nhân đạo. Không tạo ra thế tranh đoạt, ăn cướp khiến đẩy xã hội vào suy đồi, tha hóa.Nó giúp con người phát triễn”tận kỳ tính”(tính người phát triển đến độ cao),giúp xã hội đạt tới hài hòa, văn hóa, giúp dân tộc thăng hoa phát triển,giúp nhân loại đạt tới minh triết.
Ba là,nó mở ra nguồn mỹ cảm để cho con người, xã hội, quê hương và cả nhân loại đẹp đẽ lên,trong sạch lên,nhân từ, hòa ái,bao dung. Nó sẽ là nét nhạc như Nguyễn trãi từng mơ ước:”sinh đời thái bình ai cũng được ở yên,gặp thuở thánh minh ai cũng được thỏa sống”,và “làm sao cho trong thôn cùng xóm vắng không còn lời hờn giận, oán sầu”.
Nhân loại cho đó là ba chuẩn mực: Chân-Thiện-Mỹ của cuộc đời.
Cái mà đảng tôn xưng là học thuyết , chủ nghĩa Mác Lê nin đã vi phạm cả ba chuẩn mực kể trên.Chủ nghĩa Mác Lê nin thật sự đã thất bại ,phá sản.Đảng buộc phải chấp nhận hình thức tư bản chủ nghĩa và mô hình toàn trị do đảng cọng sản độc tài lãnh đạo,tức là một thể chế chính trị siêu phong kiến!
Sự tụt hậu toàn diện của đất nước, chính trị lệ thuộc, kinh tế lạc hậu,văn hóa suy đồi, giáo dục khủng hoảng,nhân cách thoái hóa…đang chứng minh sự tà vạy của học thuyết Mác-Lê và con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đảng phải đi tìm cái Chính học đích thực làm tư duy chiến lược, làm triết lý hành động,đổi mới toàn diện và triệt để đường lối,về phương thức hành xử sao cho văn minh, đạo đức, cho thật dân chủ,cả về nhân thân tức là nhân cách mới của đảng viên, của cán bộ .Hãy vứt bỏ tà thuyết Mác Lê,kiếm tìm những giá trị minh triết của dân tộc và nhân loại cùng kiến thức mới của thế giới, làm cho tư duy và đường lối thật sự là chính học.Các Mác từng nói:”Bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội”.Nhân cách của cán bộ, đảng viên thường đều đang hình thành và thể hiện ra trong những mối quan hệ xã hôi mang màu sắc phong kiến lạc hậu, tham lam, ăn trên ngồi trốc,nói như nhà Phật là tham-sân-si, diễn tả như Lê nin là vừa tham, vùa cậy quyền vừa dốt.Không có chính học không thể chuyển hóa nhân cách thành văn minh dân chủ được.
Để khẳng định được tính chính học trong tư duy chính trị, trong đường lối, trong phương thức hành xử, đảng phải kiếm tìm tính chân-thiện-mỹ trong học thuyết của mình.Phải từ bỏ tà thuyết Mác Lê, từ bỏ thể chế xã hội chủ nghĩa, từ bỏ nhũng đánh tráo khái niệm đang như là phương thức hành xử chính thống.Phải khẳng định được chính học may ra mới biển đổi được nhân cách, thành con người vừa văn minh, đạo đức, dân chủ.Thế mà vì không có chính học, nên đảng đã duy trì cơ bản là những quan hệ xã hội suy đồi, lạc hậu,vừa siêu phong kiến,vừa tư bản hoang dã,vừa xã thôn cát cứ lạc hậu. Làm sao mà có nhân thân mới văn minh, đạo đức của đảng cho được.
Đi tìm chính học là một nhiệm vụ hàng đầu của Đại hội XII này !

                              Chữ Chính thứ năm : Chính Mi.
Chính mi là chữ nói lái của dân Quỳnh lưu, dân xứ Nghệ hài hước để khẳng định rằng Chính Mi là Chí Minh.
Vấn đề chính mi có hai nội dung.Một là vấn đề nhân thân Hồ Chí Minh.Và hai là nhân cách của cán bộ đảng viên, có chính mi hay không.Tức là có thật là cách mạnh, có thật là văn minh, dân chủ hay vẵn chỉ là quan chủ phong kiến,có thật là sạch sẽ, lành mạnh hay chỉ là phường giá áo túi cơm,có thật là công bộc, người phục vụ chung hay là nhóm ăn trên ngồi trốc,v…v. Cả hai vấn đề này đều có tầm quan trọng của  sự mất cón của đảng mà còn liên quan cả đến vận mệnh đất nươc!
Về vấn đề thư nhất,Hồ chí Minh là ai.Từ nhỏ sau khởi nghĩa Tháng Tám,tôi đã nghe câu hỏi cụ Hồ là ai, có phải là Nguyễn Ái Quốc hay không.Có lẽ vì thế mà chủ tịch Hồ chí Minh phải tự mình viết ra cuốn “Cuộc Đời Hoạt động của Hồ chủ tich,cuốn này có một dị bản in bằng tiếng hoa xuất bản ở Hồng công.Trong cả hai cuốn, cụ Hồ gián tiếp nhận mình là Nguyễn Ái Quốc.
Dăm năm trở lại đây, trong xã hội lại râm ran dư luận về một cuốn sách nhan đề Hồ chí Minh sinh bình khảo (khảo cứu cuộc đời của Hồ chí Minh) tác giả Hồ tuấn Hùng,xưng là cháu nội của nhân vật trong sách.Sách cố chứng minh rằng Sau khi Nguyễn Ái Quốc vì bịnh lao mà mất ở Trung hoa vào 1932,thì Quốc tế cọng sản đã đem Hồ Tập Chương huấn luyện để đóng thế Nguyễn Ái Quốc.Hồ Tập Chương là người dân tộc Hẹ, sinh ở Đài loan, vào đảng cọng sản Trung quốc, cán bộ của quốc tế cọng sản, đã cùng với Nguyễn Ái Quốc tham dự cuộc thành lập đảng cọng sản Việt Nam ở sân banh Hương cảng.
Về Nguyễn Ái Quốc đã chết năm 1932, thì chính Hà Huy Tập một TBT của đảng đã khẳng định trong một tài liệu hiện đang là tư liệu chính thức của đang, được lưu trữ tại cúc lưu trữ của TƯ.Không thấy ai nghiên cứu, khẳng định đúng sai của vấn đề này.Nếu tư liệu này của Hà Huy Tập là chính xác, thì nhân thân của Hồ chí Minh có vấn đề.
Còn Hồ chí Minh trong một bài báo nhan đề Đảng ta, đăng ở trang 547,tạp 5,Hồ chí Minh Toàn tập có câu :” Cuối năm 1929,đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu,cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương cảng.
Trong 7,8 đại biểu ngoài,ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi…”
Như thế là “bác Hồ” đã thừa nhận Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người.
Chi tiết này rõ ràng là chứng minh cho lập luận của Hồ Tuấn Hùng khi khẳng định răng Hồ Tập Chương chính là nhân vật Hồ chí Minh của Việt nam. Điều lạ lùng là trong giới nghiên cứu ở Viện Hồ chí Minh và BCH của Đảng cũng không thấy lên tiếng phản bác đúng sai.
Còn một tư liệu nữa cần nghiên cứu. Đó là nhân vật Hồ Quang, thiếu tá Bát lộ quân, nghe nói dã từng trong một đại đội với Diệp Kiếm Anh.Nghe nói nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã cho ấn hành cuốn sách về nhân vật Hồ Quang và được coi là Hồ Chí Minh.Tôi chưa được tiếp cận tài liệu, nên chỉ giới thiệu để nghiên cứu.
Như vậy nghi án Hồ chí Minh là ai, thật sự  là có cơ sở.
Vấn đề này trở thành nghiêm trọng, vì không nghiên cứu và tiên hành những khảo sát một cách khoa học để bác bó những luận cứ kể trên,vô hình trung là đã mặc nhiên thừa nhận Hồ chí Minh là người ngoại quốc.(Trung hoa).
Nếu không khẳng định rõ Hồ Chí Minh là ai, có thật “chính mi” là người Quỳnh lưu hay Nam đàn Nghệ an, hay lại là một người Tàu thì chúng ta đang đứng trước một vấn đề pháp lý nghiêm trọng.Vì luật pháp không cho phép một người nước ngoài không tuyên bố chuyển quốc tich Việt nam lại được là Chủ tịch nhà nước hay Chính phủ!
Vì tính nghiêm trọng của vấn đề mà Đại Hội XII phải quyết định thành lập một tiểu ban độc lập nghiên cứu nghi án này.
Vấn đề này đúng là liên quan đế tính chính danh, chính thống của đảng và nhà nước hiện nay.
Thứ hai là vấn đề chính mi của nhân cách của đảng viên và cán bộ, của đảng, cố nhiên là với cả bộ máy nhà nước.(đa số công chức cán bộ nhà nước cả quân đội, công an là đảng viên).
Chúng ta hãy đặt một câu hỏi cớ sao đội ngũ cán bộ,công chức… đã trở nên ngày một suy thoái trầm trọng, đến nỗi như vô phương cứu chữa.Tham nhũng tràn lan, hoạt động kém hữu hiệu kéo dài.
Phải giải quyết vấn đề chính mi.Chính mi có là người đàng hoàng, tử tế văn minh, tiến bộ hay là phường giá áo túi cơm, khi có chức vụ thì lập tức ăn trên ngồi trốc,khi có quyền lực thì lập tức trở thành “vua chúa”,thành lãnh chúa phong kiến mà không thể nào ngăn chặn được.
Đây là vấn đề lớn, rõ là một thách đố của chế đô.Nếu không xây dựng được những quan hệ xã hội văn minh, lành mạnh, tiến bộ, nhân văn.cứ càng vận động thi đua,phong trào gia đình , phường xã văn hóa mới,càng hình thức chủ nghĩa…sẽ chỉ là may tấm áo đẹp để che ung nhọt trong cơ thể mà thôi.
Kết luận ngắn gọn: Đại Hội XII không nghiên cứu những vấn đề then chốt, cốt lõi của 5 chữ chính, sẽ lặp lại con đường cũ,sẽ lai một chu kỳ lịch sử tắc tị và trì trệ nối tiếp./.
TB. Tôi gởi những suy tư từ một thái độ trách nhiệm của một người có ít nhiều trãi nghiệm tới toàn thể các vị đại biểu của ĐHHXII. Mong được lắng nghe và phản tĩnh.

Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

Bài nói của một em bé vượt thoát từ Bắc Hàn, rất cảm động

BẢO VỆ BIỂN ĐẢO VÀ TINH THẦN ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

            Mười hai bến nước xin đăng lại bài phát biểu của giáo sư Nguyễn Đăng Hưng tại cuộc hội thảo- mít tinh "Lịch sử Chủ quyền biển đảo Việt Nam" diễn ra vào sáng ngày 4 tháng 11 năm 2015 tại 35 Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội.

            Lời dẫn của giáo sư Nguyễn Đăng Hưng:

           Vì là thành viên sáng lập, Chủ tịch Hội Đồng Khoa học của Viện Nghiên Cứu Văn Hóa Biển, tôi đã cùng Chủ nhiệm các tổ chức bạn bao gồm Chương trình Minh Triết Làm chủ Biển Đông, Viện Nghiên cứu Lý Luận và Phát Triển, đồng chủ toạ buổi mitting - hội thảo về “Lịch sử Chủ quyền Biển đảo Việt Nam”, diễn ra vào sáng ngày 4 tháng 11 tại Hà Nội.*

          Buổi hội thảo đã bắt đầu bằng một sự cố bất ngờ. Điện đã bị cắt, diễn giả không thể dùng micro để phát biểu!

         Tuy nhiên, chương trình buổi Hội thảo vẫn được triển khai như đã được thông báo, không có gì thay đổi cả.*

           Sau lời giới thiệu của TS Đinh Hoàng Thắng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, thay mặt ban tổ chức, là lời chào hỏi của Giám đốc Chương trình Minh triết Làm chủ Biển Đông, Nguyễn Khắc Mai. Sau đó là bài tham luận khúc chiết của giáo sư Trần Ngọc Vương về sự thiếu vắng chứng cứ lịch sử của người Trung Hoa về chủ quyền Biển Đông Nam Á. Nhà nghiên cứu về biển đảo Việt Nam Đinh Kim Phúc đã lên diễn đàn khẳng định mạnh mẽ với những chứng cứ xác thực chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Ông Đinh Kim Phúc cũng không quên nhắc lại những hành động phản phúc của Trung Cộng khi dùng vũ lực trái phép nhằm cưỡng chiếm các lãnh thổ trên biển của Việt Nam, ngang ngược tự tạo ra đường lưỡi bò phi pháp, biến 85%
phần biển Đông Nam Á làm ao nhà.

           Tôi là người thứ tư được mời lên phát biểu.

            Không có bài phát biểu được sửa soạn trước, tôi nói trực tiếp mấy ý, nay xin ghi lại ngắn gọn như sau:

             Thưa các vị trưởng thượng nhân sĩ,
             Thưa các quý khách,

            Chúng ta họp mặt hôm nay trong thời điểm đặc biệt có 2 sự kiện quan trọng:


           1. Chính quyền dân chủ Philippines đã có quyết tâm và ý chí đứng trên quan điểm dân tộc, đưa Trung Quốc ra Tòa Án Trọng Tài Thường Trực LHQ và ngày 29 tháng 10 vừa qua, tòa án này đã chính thức chấp nhận đơn kiện của Philippines.

          Chấp nhận đơn của Philippines là một thắng lợi lớn trên nguyên tắc cho Philippines: Tòa án xác định có thẩm quyền pháp lý (jurisdiction) để giải quyết và đưa ra phán xét căn cứ theo công ước quốc tế về luật biển và luật hàng hải hiện hành, một phần quan trọng trong những yêu sách của
Philippines.

        Điều này cũng có nghĩa là tòa án đã bác bỏ lập luận của Trung Cộng qua những tuyên bố chính thức của họ là ngược lại, tòa không có thẩm quyền phán xét.

       Trong lúc Trung Cộng đang có những hành động ngang ngược, tự cho mình cái quyền sở hữu Biển Đông thì quyết định này của Tòa án Trọng tài tại La Haye là một bước đầu thắng lợi của cuộc đấu tranh vì công lý, vì luật pháp quốc tế. Chính phủ Philippines, Tổng thống Benigno Aquino III đã tỏ ra rất sáng suốt, có những quyết định chiến lược để bảo vệ quyền lợi của đất nước mình, đi đầu trong việc bảo vệ biển Đông Nam Á.

        Tôi cũng rất mong muốn là Hội Thảo hôm nay của chúng ta gửi lời chúc mừng, nhiệt liệt ủng hộ chính sách đối ngoại rõ ràng, kiên cường, không khuất phục nước lớn mà Philippines đang thể hiện.

        Tuy là một nước không lớn mạnh hơn Việt Nam, tuy là dân tộc không có được lịch sử hào hùng kiên cường ngàn năm chiến thắng ngoại xâm, nhưng nhân dân Philippines và nhất là trí thức Philippines hôm nay đã có được danh dự ngẩng cao đầu nhìn ra thế giới.

         Việt Nam đã ngần ngại không chủ động đứng ra khởi kiện Trung Quốc hoặc đưa vấn đề Trung Quốc xâm lấn chủ quyền của Việt Nam ra các cơ quan tài phán quốc tế.

         Đây là một thực tế đáng buồn. Mặc dù Việt Nam là đất nước bị thiệt hại và là nạn nhân đau đớn nhất của những hành vi xâm lấn cướp bóc, sát hại ngư dân của Trung Quốc, nhưng ta đã chưa khởi kiện Trung Cộng.

         Cho đến chừng nào Việt Nam mới quyết định  khởi kiện?

         Dựa vào bối cảnh Philippines đưa đơn ra Tòa án Trọng tài, Việt Nam đã chỉ có một động tác nhỏ là gửi thư nói lên sự quan tâm.

        Tôi cho rằng như vậy là chưa đủ.

         Trong khi chờ đợi chuẩn bị hồ sơ phát động đơn kiện, Chính phủ Việt Nam có thể dễ dàng hành động mạnh mẽ và tích cực hơn nữa trong việc tham gia vào tiến trình này ở Tòa Trọng tài La Hay như tham gia điều trần ở Toà Án Trọng Tài La Haye, xác định mạnh mẽ hơn chủ quyền lịch sử và thực tế của Việt Nam.

          2. Chủ tịch Tập Cận Bình được Chính phủ VN chính thức mời như một quốc khách, và sẽ bắt đầu hiện diện tại Hà Nội ngay ngày mai 5/11/2015 là một điều không hay, nhất là trong khung cảnh tranh chấp pháp lý về chủ quyền tại Biển Đông chưa ngã ngũ!

          Tôi lo ngại là hành động này sẽ được thế giới diễn giải như một lối hành xử gián tiếp ủng hộ cho lập luận về chủ quyền của Trung Quốc, hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam, trong những tranh chấp pháp lý tương lai.

         Trung Cộng thiếu chính nghĩa và lý lẽ nhưng dùng sức mạnh quân sự để đặt chúng ta trước một chuyện đã rồi, một tình trạng “de facto”.

          Nếu sự phản đối của của chúng ta quá yếu ớt, thì qua thời gian chẳng hạn sau 15, 20  năm, tình trạng thực tế sẽ chuyển thành một tình trạng có tính pháp lý (de jure) và có thể sẽ được các tòa án quốc tế thừa nhận.

          Trong khuôn khổ luật pháp phương Tây có khái niệm sở hữu ngược (adverse possession). Nếu kẻ lạ xâm phạm nhà anh mà anh không la lên đủ lớn để pháp luật biết tới thì sau một thời gian, kẻ lạ sẽ khai với luật pháp là nhà của anh ta và toà án có thể chuyển căn nhà qua tên kẻ lạ.

          Ý nghĩa cốt lõi của khái niệm này là: khi một người, hoặc một quốc gia có chủ quyền thì phải phát huy tích cực chủ quyền đó. Nếu không thì không xứng đáng giữ chủ quyền.

         Tôi e rằng chủ trương “không làm gì hết” của Việt Nam là hoàn toàn rơi vào bẫy của Trung Quốc.

          3. Về mặt chính trị, người đứng đầu của Trung Quốc, ông Tập Cận Bình, gần đây khi sang Mỹ và sang Anh, đã nói toạc móng heo là các đảo trên Biển Đông Nam Á là thuộc về Trung Quốc từ thời cổ đại. Ông chỉ nói khơi khơi nhưng chẳng đưa ra một bằng chứng cụ thể nào đáng tin cậy.

          Tôi hy vọng lãnh đạo Việt Nam sẽ thẳng thắn và công khai nói với Tập Cận Bình rằng quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ Việt Nam đã bị Trung Cộng cưỡng chiếm từ năm 1974, rằng những bãi đá thuộc chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Trường Sa cũng đã bị Trung Cộng lấn chiếm từ năm 1988.

           Đây là những hành động dùng vũ lực, vi phạm hiến chương Liên Hiệp Quốc mà một nước lớn, thành viên Hội Đồng Bảo An như Trung Cộng không thể tự cho phép ngang nhiên hành động được.

           Tôi cũng hy vọng các nhà lãnh đạo Việt Nam nhân dịp gặp gỡ trao đổi một cách thẳng thắn với ông Tập Cận Bình về việc xây dựng, tôn tạo những bãi đá thành những đảo nhân tạo là hành động vi phạm “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được các nước ASEAN và Trung Quốc ký ngày 04/11/2002 tại Campuchia”.

          Tôi cũng đề nghị trong chương trình làm việc của Chủ tịch Tập Cận Bình, nên dẫn ông ta đi thăm bảo tàng lịch sử ngàn năm của VN để ông ta thấy Lý Thường Kiệt phá Tống, Lê Lợi đuổi giặc Minh, Nguyễn Huệ tiêt diệt quân Thanh như thế nào.

          Tôi biết là người Trung Quốc sau năm 1949 đã không biết gì về lịch sử bang giao Việt-Trung, dấu nhẹm những bài học về những thất bại của Tàu từ ngàn xưa.

          Được tiếp xúc với nhiều sinh viên Trung Hoa sang Bỉ sửa soạn luận án Tiến sĩ, những người cùng thế hệ với ông Tập Cận Bình, tôi rất rõ về trình độ văn hoá lịch sử của họ. Họ đã bị đầu độc một cách có hệ thống, xuyên tạc lịch sử một cách trắng trợn, coi các nước Đông Nam Á, đặc biệt  Việt Nam, là thuộc quốc của họ đã bị các đế quốc phương Tây chiếm đoạt. Trung Cộngnay trỗi dậy phát triển sẽ thu về một mối Đông Nam Á.

         Luận điệu xuyên tạc này đã bị tôi chỉ trích năm 1992 (ba năm sau vụ đàn áp sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn, 1989), ngay tại Bảo Tàng Viện Thiểm Tây, toạ lạc không xa mộ Tần Thuỷ Hoàng, trước mặt gần 400 nhà khoa học quốc tế và họ đã vỗ tay vang dội tán thưởng.

        Nhân dịp này nên cho ông ta xem hồ sơ toàn tập về các bản đồ Trung Hoa mà hiện nay Việt Nam có trong tay.

         Họ Tập dám bảo các đảo trên Biển Đông thuộc TQ từ thời cổ đại, vậy mong ông ta chỉ rõ việc này trên bản đồ của chính người Trung Hoa vẽ từ xưa.

          Tôi nghĩ chúng ta nên thẳng thắn giúp ông ta biết sự thật, có ích cho quyền lợi của Việt Nam, sự yên tĩnh ở Biển Đông Nam Á và nền hoà bình trên thế giới.

          Kính thưa các nhân sĩ Bắc Hà,
          Các bạn trẻ thân mến,

        Tôi thành thật cám ơn anh Nguyễn Khắc Mai đã vượt qua nhiều khó khăn để tổ chức được buổi Hội Thảo hôm nay, đúng vào một thời điểm nhạy cảm và cho phép tôi phát biểu.

         Xem danh sách các khách quý bao gồm đông đảo các vị đã từng là quan chức cao cấp của chính quyền, tôi rất đỗi phấn khởi.

        Tình hình chung của đất nước đã đi đến một giai đoạn khẩn trương, nguy cơ mất biển, mất đảo đã ngày càng nghiêm trọng và việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền đất nước là mối quan tâm của tất cả người dân Việt Nam, trong cũng như ngoài nước. Phải nói sự hung hãn của chính quyền Trung Cộng, những hành động ngang ngược coi thường luật pháp quốc tế đã làm tất cả những ai có dòng máu Việt Nam chảy trong huyết quản đều phải thức tỉnh, quan ngại, lo âu.

         Nguy cơ mất nước không chỉ là một giả thuyết nữa mà là một hiện thực cận kề tính từng năm.

          Đây cũng là chất keo mạnh mẽ gắn chặt hơn bao giờ hết sự đoàn kết gắn bó của hơn 4 triệu người Việt sống ở nước ngoài và 90 triệu người Việt sống trên lãnh thổ Việt Nam.

          Tôi hy vọng sẽ có một ngày, sẽ có một hội thảo đông đảo hơn nữa, bao gồm các tinh hoa của đất Việt không chỉ ở Hà Nội mà trên toàn cõi Việt Nam, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới.

          Vì một hoàn cảnh lịch sử nghiệt ngã người Việt đã phải bỏ nước ra đi tìm đất sống. Trong cái rủi này có cái may: không có đâu trên thế giới mà không có người Việt, không có chuyên môn nào mà người Việt không có chuyên gia, không có ngoại ngữ nào mà người Việt không biết…

          Đây chính là sức mạnh và khi có nguy cơ mất nước, sức mạnh ấy sẽ bội phần nhân lên, đẩy lùi những thế lực xâm lấn hung bạo nhất, ác độc nhất…

          “Từ độ mang gươm đi mở cõi

           Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”

            (Thơ Huỳnh Văn Nghệ).



Hà Nội ngày 4/11/2015
Nguyễn Đăng Hưng,